Crawford Manufacturing Co., và những ngày làm ‘piecework’…

Cuộc “phỏng vấn” lịch sử của tôi và bác Linh gái với bà Missy, nhân viên đốc công của hãng Crawford Manufacturing Co., ở downtown Richmond, Virginia, kéo dài không quá bảy, tám phút. Phải mãi đến nhiều năm sau khi học xong ra trường và có việc làm hẳn hòi tôi mới biết đó là cuộc phỏng vấn nhanh nhất và ngắn nhất trong đời.

Chúng tôi được bác Châu, một đồng hương tị nạn gần nhà đưa đến Crawford Manufacturing vào lúc gần trưa. Sở dĩ có chuyến đi này là vì bác Châu gái, vợ bác, làm việc ở đây được hơn sáu tháng, cho biết hãng đang cần người, và đề nghị chồng giúp chúng tôi đến xin việc.

Bà Missy dẫn chúng tôi đi xuyên qua những dẫy dài bất tận của hàng trăm chiếc máy may công nghiệp. Tại mỗi máy, từng người thợ, đa số là phụ nữ, đang cặm cụi rạp người xuống, không buồn tò mò ngửng lên, khi ba người chúng tôi bước qua. Đi một lúc thì Missy ra dấu cho chúng tôi dung truoc hai chiếc máy may trống không có người ngồi.

Tôi ngần ngại nhìn quanh rồi kéo ghế ngồi vào. Chiếc máy may màu xám bằng thép trông thật lạnh lùng và… vĩ đại làm tôi thấy.. khớp. Trông nó chẳng gần gũi thân yêu giống chiếc máy may Singer xinh xinh của mẹ ở nhà, mà thỉnh thoảng tôi vẫn dùng khi còn Việt Nam.

Thấy bà Missy chăm chú nhìn, dù bụng đánh lô tô, tôi cố gắng tỏ ra tỉnh táo, loay hoay tìm cách làm quen với dụng cụ khổng lồ trước mặt.  Có được nhận việc hay không ngày hôm nay tất cả nhờ vào việc tôi có thể điều khiển nó hay không. May quá, máy đã được luồn chỉ sẵn…

Kéo ghế vào gần cho thoải mái, tôi cúi nhìn xuống chân, rồi luống cuống thêm vì không thấy có cái bàn đạp quen thuộc giống như chiếc máy duy nhất tôi biết xử dụng.  Chết cha, làm sao cho máy chạy đây? Liếc nhìn qua bàn bên cạnh, thấy hai chân của người thợ người da đen để vững vàng trên sàn đất, nhưng mỗi lần máy chạy thì đầu gối phải hơi xích qua một bên. Nhìn kỹ lại máy mình đang ngồi thì mới thấy ngang đầu gối bên phải của tôi có một cái “cần” chung quanh được bọc bằng những miếng vải  vụn đủ mầu sắc, tôi kéo ghế gần vào thêm nữa cho cái cần may gần sát vào đầu gối mình. Thấy tôi còn lúng túng, bà Missy mách nước “use your knee to push.”

Rồi Missy đưa cho tôi mấy miếng vải dầy hình bầu dục màu cam, bảo tôi may thử một đường viền chung quanh khung vải. Đỡ lấy xấp vải từ tay bà, tôi cận trọng lấy hai miếng chập mặt phải vào nhau, nhấc chân vịt lên, kiểm soát lại chỉ, bỏ vải vào, ngắm nghía cho thẳng, lấy tay quay cho kim cắm sâu vào vải rồi bắt đầu dùng đầu gối phải đẩy vào cái cần…

Vù……….

Wow! Máy mạnh kinh khủng! Chạy vù một cái nhanh quá khiến tôi có cảm tưởng miếng vải sắp văng ra ngoài, mang theo con tim tôi đang đập thình thịch trong lồng ngực. Nhìn lại đường may của mình thì hỡi ơi, chắc là không được mướn rồi, tôi thầm nghĩ. Đường may của tôi cách quá chu vi miếng vải. Ngẩng lên, thấy bà Missy nhìn mình bằng ánh mắt hiền từ, ra dấu làm lại, nụ cười ngầm chút khuyến khích. Tôi thở nhẹ lấy bình tĩnh, nhấc chân vịt lên, quay miếng vải lại, và lần này dùng đầu gối đẩy vào cần may, nhẹ nhàng hơn, chậm rãi hơn. Thêm vài giây chập choạng nữa, đầu gối, tay và mắt tôi bắt đầu làm việc với nhau nhịp nhàng. Đường may lần này bám sát lấy bìa vải. May đến cuối đường, tôi cẩn thận quay đầu miếng vải lại, đi thêm một inch nữa cho chỉ khỏi bung ra.

Bên cạnh, bác Linh cũng vừa may xong. Bác là dân may chuyên nghiệp nên có vẻ không gặp khó khăn gì…

Bà Missy ra dấu cho tôi lấy vải ra khỏi máy.  Cầm lên xem xét đường kim mũi chỉ, bà gật đầu hài lòng.

“You are both hired!” Bà nói. Tôi nghĩ bà không biết rằng lời nói của mình là tiếng nhạc vui nhất bên tai của hai bác cháu người tị nạn vừa chân ướt chân ráo vào Mỹ chẳng được bao lâu, cần tiền để trang trải cho mọi thứ nhu cầu, cho chính mình và cho thân nhân còn ở Việt Nam.

Tôi quay qua thông dịch tin vui cho bác Linh biết. “Tốt, thế thì Hà với bác đi cùng xe được rồi, may quá!” Bác reo vui.

Tôi theo chân bà Missy ra khỏi khu xưởng may với tâm trạng hân hoan. Missy đưa chúng tôi qua một tòa nhà khác, khang trang hơn vào phòng nhân viên.  Chờ điền giấy tờ xong, bà tiễn ra cửa rồi dặn kỹ là sáng mai 7:30 phải có mặt trước cửa building số 14, sẵn sàng làm việc.

Lúc ấy là cuối năm 1975, ông Thompson, trưởng phòng nhân viên, cho biết trong vòng ba tháng đầu thử việc, chúng tôi được ăn lương tối thiểu của tiểu bang, $2.10 một giờ. Nhưng nhấn mạnh đây là loại “công việc tính theo ‘piece work’ nghĩa là làm miếng nào ăn tiền miếng nấy”. Ông giải thích thêm, “sau ba tháng mà không ra hàng theo đủ tiêu chuẩn, thì có thể bị sa thải”.

Làm theo ‘piece work’, tôi chưa nghe những chữ này bao giờ. Từ hồi đặt chân đến Mỹ ngày nào cũng học không biết bao nhiêu là chữ mới. Nhưng câu “ra hàng đủ tiêu chuẩn” làm tôi lo lắng.

“Đủ tiêu chuẩn?” Tôi băn khoăn hỏi, dù lúc đó ông Thompson đã kéo ghế đứng dậy, chuẩn bị ra khỏi phòng.

Thấy tôi thắc mắc, người trưởng phòng nhân viên có vẻ hơi ngạc nhiên. Ông ngồi xuống ghế: “Good question! No one ever asked me that question when they are hired before.” Ông nói.

Câu nói của ông làm tôi hơi lo, mong là ông không bị phật lòng vì câu hỏi của mình? Từ bé đến lúc lạc chân qua Mỹ, tôi chỉ biết đi học, chưa đi làm ngày nào. Đến đây thì ngoài một vài công việc bồi bàn vớ vẩn, chưa hề làm việc ở sở hay công xưởng. Ngoài vốn liếng Anh Ngữ năm đầu đại học Văn Khoa ban Anh Văn, và những năm tốn tiền của bố mẹ, buổi tối mài đũng quần ở trường dạy kèm tiếng Anh London School ở Sài Gòn, kinh nghiệm đời là con số không to lớn.

Nhìn tôi bằng ánh mắt tò mò thích thú, ông Thompson chậm rãi nói: “Take your hourly wage, divided that by the price per piece, that’s how many pieces you have to finish in one hour. Do you understand?”

Tôi gật đầu ra hiệu mình đã hiểu. Vậy thì mỗi miếng được trả bao nhiêu tiền? Câu hỏi kế tiếp lập tức hiện ngay ra trong đầu, nhưng tôi im lặng không dám hỏi gì thêm, thầm nhủ, thôi, mọi việc tính sau. Được nhận là may rồi.

Trên đường về, sau khi tôi giải thích cho bác Linh nghe điều mới học về lương giờ tối thiểu và công việc “piece work”…, hai bác cháu ngồi im trầm ngâm suốt con đường về nhà, chìm sâu trong tâm tư của riêng mình.

Ngày mai đi làm rồi. Hết mừng tôi lại lo. Cái khổ nhất là trời lạnh mà phải dậy thật sớm, phải đi ké xe, 7:30 sáng đã phải làm rồi, còn phải mang cơm đi để ăn trưa, theo lời bác Châu gái dặn.

Sáng sớm hôm sau, mới 6:45AM xe của bác Châu trai đã đậu trước cửa. Bác cho chúng tôi đi ké vì bác Linh chưa có xe. Bác Châu gái ngồi cạnh chồng mặt còn hơi ngái ngủ, dưới chân bác là chiếc túi lớn, bên trong có lon Guigoz, chắc đựng cơm, và một phích nước nóng. Tôi co ro theo chân bác Linh bước vào băng sau. Vội quá, hai bác cháu đi người không, không kịp lo thức ăn trưa, không biết lát nữa tính sao.

Lương đầu của chúng tôi, theo đúng luật của tiểu bang Virginia lúc đó, như đã nói, là lương tối thiểu $2.10 một giờ. Con số này cho đến giờ đã hơn bốn mươi hai năm, mà tôi còn nhớ rất rõ. Lúc ấy tôi phải nhớ nó, không phải để tính toán xem mỗi tuần làm được bao nhiêu tiền,  mà là vì tôi làm việc theo kiểu piecework, được trả lương cho từng miếng, cho nên phải tính ra xem mỗi ngày phải may bao nhiêu cái gối mới dữ được việc.

Ngày đầu tiên vào xưởng, tôi và bác Linh được xếp vào ngồi gần nhau. Tôi đỡ lấy đám vải và một chiếc áo gối mẫu bà Missy đưa đến, đơn giản, gối vuông, bốn góc được cắt bầu bầu, bà chỉ vào chiếc gối mẫu bảo phải may viền. May cho gần kín hết khung vải và chừa khoảng 2 inches để ban nhồi gối có chỗ nhồi foam.

Tôi để ý thấy bên trên xấp vải là một miếng giấy nhỏ, trên đó ghi ký hiệu của mẫu áo gối, bao nhiêu miếng, và giá tiền trả cho mỗi miếng.

Trời đất mỗi cái áo gối như thế tôi được trả 4 cents ($.04). Lấy ngay giấy bút ra loay hoay làm toán. $2.10/.04. Sau ba tháng mỗi giờ tôi phải may được 53 cái gối, tức một ngày hơn 400 cái gối mới không lo bị đuổi. Một con số thật đe dọa.

Sau khi giao vải, bà Missy trở lại với những cuộn băng cùng màu và cùng loại vải đã cắt sẵn để tôi, khi may bọc qua miếng pipe bằng plastic nhỏ để làm vien gối. Giờ mới để ý thấy đằng sau lưng tôi, phía bên phải có treo một cuộn băng pipe khổng lồ. Trên bàn máy là một sấp nhãn hiệu, một cái stamp và một ink pad để đóng số của mình vào mặt trái nhãn hiệu. Tôi đóng thủ một cái. Mình mang số 4250. Sau này tôi mới hiểu tại sao mình phải đóng dấu vào nhãn. Làm như thế để khi thợ may xong, khi lật gối ra để thổi foam vào, nếu có  đường chỉ bị bung, cần phải trả lại, thì người đốc công còn biết mang sản phẩm trả về đâu.

Xong ngày đầu tiên vật lộn với đám vải tôi mệt nhoài. Cứ may hai tiếng lại có tiếng chuông kêu ngắn. Break time, người đàn bà da đen ngồi bên cạnh của tôi nói lớn như nhắc chúng tôi dừng tay nghỉ. Theo đúng luật lao động, mỗi hai tiếng nhân công được nghỉ 10 phút. Cứ nghe tiếng chuông reo là những người xung quanh tôi hàng loạt xô ghế đứng dậy, họ hoặc đi ra phía ngoài building hút thuốc, hoặc xuống cafeteria mua lon nước, gói bánh. Riêng tôi và bác Linh cắm cúi bên máy không dám nghỉ, chỉ sợ may không đủ thì bị đuổi.

Hôm ấy tôi may được hơn 200 cái gối. Hai cái bị trả lại vì may hơi bị mớm. Đoạt gần nửa tiêu chuẩn. Không đến nỗi tệ lắm. Mình có ba tháng để “make your minimum wage”. Tôi trấn an.

Để đảm bảo không bị đuổi việc tôi ngồi yên cắm cúi may đến mờ cả mắt. Thật vậy, trong suốt thời gian làm việc o đo, hai bác cháu cắm đầu, cắm cổ vào việc, không dám nghỉ tay ngay cả trong giờ break, mỗi ngày hai lần.

Thế giới tôi lúc ấy thu nhỏ lại chỉ ở trong không gian những dẫy dài tăm tắp đám máy may kỹ nghệ màu xám xịt. Công nhân người này ngồi sát người kia, gần nhau đến nỗi người bên cạnh có thở dài, ợ chua hay, nói xin lỗi, tệ hơn, mình cũng nghe thấy hết. Ngồi sát nhau vậy mà không thấy mặt nhau, vì người nào cũng cúi gằm mặt xuống, và bị che khuất bởi những chồng vải cao ngất ngưởng…

Hà Giang
Sep 15th 2017

(còn tiếp)

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *